Khi pháp luật đi sau thực tiễn - vấn đề không mới, nhưng ngày càng cấp thiết: Trong nhiều năm qua, tình trạng pháp luật “chạy sau” đời sống xã hội không còn là điều hiếm gặp. Đảng ta cũng đã thẳng thắn thừa nhận thực tế này đang tồn tại dai dẳng trong nhiều năm qua. Trong các văn kiện của Đảng và đặc biệt là Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 của Bộ Chính trị về đổi mới công tác xây dựng và thi hành luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới (Nghị quyết 66-NQ/TW), Đảng ta nhận định: “Công tác xây dựng pháp luật còn nhiều bất cập; một số chính sách pháp luật chưa sát thực tiễn, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh và bền vững trong thời kỳ mới. Tình trạng chồng chéo, xung đột, thiếu thống nhất, thiếu minh bạch vẫn còn phổ biến”[1].

Đến tháng 5 năm 2024, Việt Nam có 266 Bộ luật và Luật [2], đây là nền tảng pháp lý vững chắc cho một xã hội công bằng và phát triển. Tuy nhiên trong thực tế còn nhiều vấn đề “tắc nghẽn” khiến pháp luật chưa theo kịp thực tiễn. Các lĩnh vực nóng như: Kinh tế số, công nghệ tài chính (Fintech); Kinh tế chia sẻ (Uber, Grab); Trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu lớn; an ninh mạng, giao dịch điện tử... Đều xảy ra tình trạng “thực tiễn đã có”, nhưng pháp luật chưa theo kịp, thiếu khuôn khổ pháp lý rõ ràng, khiến cả doanh nghiệp, người dân lẫn cơ quan quản lý lúng túng. Ví dụ, trong công nghệ tài chính (Fintech) phát triển với các hình thức như: ví điện tử, cho vay ngang hàng (P2P Lending), tiền mã hóa, ngân hàng số... Tuy nhiên, Luật Ngân hàng, Luật Tổ chức tín dụng hiện nay vẫn chưa có quy định điều chỉnh rõ ràng các mô hình này; hay Công nghệ xe tự hành đã bắt đầu thử nghiệm tại Việt Nam, nhưng Luật Trật tự, an toàn giao thông đường bộ năm 2024 chưa quy định rõ về loại phương tiện này, người điều khiển, trách nhiệm khi xảy ra tai nạn... Điều này khiến các doanh nghiệp công nghệ hoặc nhà đầu tư khó triển khai thử nghiệm ở quy mô lớn; Kinh tế nền tảng - Gig Economy tạo ra hàng triệu việc làm, tuy nhiên, Bộ luật Lao động chưa phân loại được rõ ràng những người làm việc qua nền tảng là “lao động tự do”, “đối tác”, hay “người lao động”? Do đó, quyền lợi về BHXH, BHYT, tai nạn lao động... vẫn chưa được đảm bảo rõ ràng, gây tranh cãi …Vì vậy, Đảng ta chỉ rõ: “Cần có một cuộc đổi mới toàn diện, sâu sắc, đồng bộ trong cả tư duy và phương thức xây dựng, thi hành pháp luật”[1] - để pháp luật không còn “chạy sau”, mà trở thành người dẫn đường cho sự phát triển.

Để pháp luật không còn “chậm nhịp”, theo tác giả cần thực hiện đồng bộ, hiệu quả các giải pháp sau:

Một là, thiết lập cơ chế xây dựng luật nhanh - linh hoạt - hiệu quả. Áp dụng mô hình “luật khung, luật mềm” với các lĩnh vực công nghệ cao.

Pháp luật là xương sống của quản lý xã hội, là công cụ quan trọng để điều chỉnh hành vi, đảm bảo trật tự, công bằng và phát triển bền vững. Tuy nhiên, trong bối cảnh công nghệ phát triển quá nhanh, nếu pháp luật không thay đổi kịp, sẽ trở thành lực cản lớn đối với công cuộc đổi mới. Vì vậy, cần thiết lập cơ chế làm luật nhanh (rút ngắn quy trình xây dựng luật nhưng vẫn đảm bảo chất lượng và tính chặt chẽ) - linh hoạt (pháp luật phải có tính mở, đủ linh hoạt để dễ dàng điều chỉnh theo thực tế phát sinh) - hiệu quả (pháp luật phải có tính khả thi, được thực thi và mang lại lợi ích thiết thực cho xã hội). Điều này phù hợp với sự thay đổi nhanh của các lĩnh vực như công nghệ số, AI, dữ liệu lớn, blockchain, tiền kỹ thuật số, kinh tế nền tảng... Đồng thời, việc áp dụng luật khung, luật mềm sẽ cho phép nhà nước kiểm soát rủi ro ban đầu mà không "khóa chặt" đổi mới, giúp thích ứng nhanh với sự thay đổi liên tục của công nghệ, dễ dàng sửa đổi, cập nhật, thay vì phải chờ sửa cả đạo luật mất nhiều năm. Ví dụ: Lĩnh vực trí tuệ nhân tạo (AI) - rất mới, thay đổi liên tục. Thay vì ban hành một Luật AI ngay từ đầu, có thể dùng luật khung về đổi mới sáng tạo, kết hợp bộ quy tắc đạo đức AI (luật mềm), sau đó cập nhật dần theo thực tiễn.

Hai là, chuyển đổi số trong công tác lập pháp và thi hành pháp luật.

Trong thời đại công nghệ phát triển nhanh chóng, việc xây dựng và thực thi pháp luật theo cách truyền thống (giấy tờ, quy trình thủ công...) không còn phù hợp. Chuyển đổi số là giải pháp tất yếu để tăng hiệu lực, hiệu quả và minh bạch trong quản trị quốc gia. Tính đến 13h00 ngày 24/5/2025, đã có khoảng 14 triệu người dân tham gia góp ý sửa đổi Hiến pháp năm 2013 trực tiếp trên ứng dụng VneID [3]. Đó là bước tiến dân chủ trong thời đại số. Với vài thao tác đơn giản trên điện thoại thông minh, mọi công dân Việt Nam có thể trực tiếp gửi gắm suy nghĩ, kỳ vọng và đề xuất của mình đối với bản Hiến pháp - đạo luật nền tảng của quốc gia. Đây là một bước tiến quan trọng trong quá trình dân chủ hóa, tạo điều kiện để người dân thực sự trở thành chủ thể trong việc xây dựng thể chế. Đồng thời, chuyển đổi số trong công tác lập pháp và thi hành pháp luật còn tiết kiệm thời gian, chi phí và đảm bảo tính minh bạch. Vì vậy, cần triển khai thực hiện hiệu quả nhiệm vụ, giải pháp mà Nghị quyết 66-NQ/TW đề ra: “Tăng cường chuyển đổi số, ứng dụng trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn trong công tác xây dựng và thi hành pháp luật”; “Ưu tiên nguồn lực xây dựng, phát triển hạ tầng công nghệ thông tin, cơ sở dữ liệu lớn, ứng dụng công nghệ số, trí tuệ nhân tạo phục vụ đổi mới, hiện đại hóa công tác xây dựng, tổ chức thi hành pháp luật, bảo đảm “đúng, đủ, sạch, sống”, liên thông, dễ khai thác, dễ sử dụng, an toàn thông tin và bí mật nhà nước”[1].

Ba là, xây dựng đội ngũ cán bộ pháp lý chuyên nghiệp, có tư duy đổi mới.

Trong hành trình xây dựng một nhà nước pháp quyền hiện đại, pháp luật phải là “người dẫn đường” cho sự phát triển. Nhưng nếu pháp luật chậm đổi mới, thiếu linh hoạt, thì chính nó sẽ trở thành lực cản vô hình. Vậy đâu là yếu tố then chốt để “hơi thở pháp luật” luôn kịp thời, phù hợp và hiệu quả? Câu trả lời chính là: Đội ngũ cán bộ pháp lý - những người kiến tạo và hiện thực hóa pháp luật trong thực tế. Đặc biệt, trong kỷ nguyên số, khi công nghệ, mô hình kinh doanh và lối sống thay đổi từng ngày, pháp luật muốn “theo kịp” thì người làm luật, thực thi luật cũng phải “chạy kịp”. Do đó, việc xây dựng một đội ngũ cán bộ pháp lý chuyên nghiệp, bản lĩnh, có tư duy đổi mới là một yêu cầu cấp thiết và mang tính chiến lược. Vì vậy, cần nâng cao chất lượng tuyển dụng và đào tạo cán bộ pháp luật; tăng cường đào tạo liên ngành: pháp lý - công nghệ - kinh tế số; bồi dưỡng kỹ năng lập pháp dựa trên dữ liệu và đánh giá tác động chính sách; xây dựng môi trường làm việc chuyên nghiệp - minh bạch - trọng dụng nhân tài; đổi mới tư duy người làm luật  từ “quản lý” sang “kiến tạo phát triển”; triển khai thực hiện các chính sách đặc thù đối với cán bộ hoạt động xây dựng pháp luật, thi hành pháp luật mà Nghị quyết 66-NQ/TW đã đề ra, như “Hỗ trợ hằng tháng bằng 100% mức lương theo hệ số lương hiện hưởng đối với người trực tiếp, thường xuyên làm công tác tham mưu nghiên cứu chiến lược, chính sách, xây dựng pháp luật tại một số cơ quan, đơn vị” [1]; ...

Bốn là, xây dựng văn hóa pháp quyền hiện đại, gần dân.

Trong thời đại mới, việc ban hành luật pháp thôi là chưa đủ. Điều quan trọng hơn là luật phải sống trong đời sống xã hội, ăn sâu vào ý thức và hành vi của mỗi người dân, mỗi cán bộ, đảng viên. Đó là khi văn hóa pháp quyền thật sự được hình thành và phát triển. Vì vậy, cần đổi mới cách thức phổ biến, giáo dục pháp luật nhằm tăng cường tiếp cận pháp luật cho người dân, như thông qua ứng dụng công nghệ số; sử dụng ngôn ngữ đơn giản, dễ hiểu. Ví dụ: thay vì đăng công văn dài dòng, hãy làm video hoạt hình, infographic để giải thích luật mới. Đưa giáo dục pháp luật vào học đường, doanh nghiệp, cộng đồng dân cư. Dạy trẻ em từ nhỏ về quyền, nghĩa vụ và luật lệ một cách sinh động - qua trò chơi, sân khấu hóa. Tổ chức các ngày hội pháp luật, đối thoại pháp luật giữa chính quyền - người dân - doanh nghiệp. Cung cấp dịch vụ tư vấn pháp luật miễn phí cho nhóm yếu thế; Xây dựng hình ảnh cán bộ pháp lý thân thiện, dễ tiếp cận: Không phải chỉ “kiểm tra - xử phạt”, mà còn là người hướng dẫn - người hỗ trợ pháp lý cho dân… Có thể thấy, khi pháp luật trở thành một phần của đời sống, của suy nghĩ và hành vi hàng ngày, lúc đó ta mới thực sự có một nhà nước pháp quyền vững mạnh, minh bạch, công bằng và phát triển bền vững.

  Tóm lại, trong bối cảnh Việt Nam đang hội nhập sâu rộng, chuyển đổi số diễn ra nhanh chóng và kinh tế số trở thành mũi nhọn tăng trưởng, nếu pháp luật không theo kịp, cả hệ thống sẽ bị “kéo lùi”. Nghị quyết 66-NQ/TW là lời cam kết mạnh mẽ của Đảng về việc đồng hành với sự phát triển của đất nước bằng công cụ pháp lý hiện đại - chủ động - linh hoạt - công bằng.  Để phát triển nhanh - phát triển mạnh - phát triển bền vững, pháp luật Việt Nam không thể “đi sau” mà phải “dẫn đầu”. Vì vậy, đổi mới thể chế pháp luật là điều kiện tiên quyết để Việt Nam phát triển nhanh và bền vững bước sang kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

                                                                                                      

                                                                                                           Ngô Thị Minh Lành

                                                                                                    Trường Chính trị Quảng Bình

 

  Tài liệu tham khảo:

1. Bộ Chính trị, Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 của Bộ Chính trị về đổi mới công tác xây dựng và thi hành luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới;

2.https://luatvietnam.vn/tin-phap-luat/danh-muc-cac-bo-luat-luat-cua-viet-nam-230-18136-article.html ;

3.https://daibieunhandan.vn/khoang-14-trieu-nguoi-tham-gia-gop-y-sua-doi-bo-sung-mot-so-dieu-cua-hien-phap-2013-qua-vneid-10373656.html .

Đang truy cập: 2

Hôm nay: 6

Tổng lượt truy cập: 57,393